Căn cứ khoản 4 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP và Điều 33 Thông tư 04/2020/TT-BTP, khi người xin xác nhận độc thân sinh sống ở nhiều địa phương khác nhau thì có trách nhiệm chứng minh tình trạng hôn nhân của mình.
Căn cứ khoản 4 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP và Điều 33 Thông tư 04/2020/TT-BTP, khi người xin xác nhận độc thân sinh sống ở nhiều địa phương khác nhau thì có trách nhiệm chứng minh tình trạng hôn nhân của mình.
Trong số những người dưới 50 tuổi nói rằng họ không có khả năng sinh con, 57% nói họ chỉ không muốn sinh con. Những lý do chính khác khiến họ không có khả năng sinh con bao gồm muốn tập trung vào những việc khác (44%) và lo ngại về tình hình thế giới (38%).
Đó là sự khác biệt rõ rệt so với người lớn tuổi. Trong số những người trên 50 tuổi không có con, 31% cho biết họ không bao giờ muốn có con.
Một nguyên nhân lớn dẫn đến tỷ lệ sinh giảm ở Hoa Kỳ là do tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn giảm (giảm khoảng 15% từ năm 2010 đến năm 2019), theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh. Nhiều người không muốn làm cha mẹ có thể tránh được điều đó, nhờ vào những tiến bộ trong công nghệ tránh thai và sinh sản.
Một nghiên cứu riêng của Pew cho thấy ngày càng có nhiều người lớn dưới 50 tuổi nói rằng họ không bao giờ có ý định sinh con. Nhóm này tăng từ 37% người lớn vào năm 2018 lên 47% người lớn vào năm 2023.
Nếu chi phí không phải là vấn đề quyết định, tại sao những người Mỹ trẻ tuổi lại không muốn có con nhiều như cha mẹ họ?.
Callie Freitag, 33 tuổi, sống tại Madison, Wisconsin, nơi cô làm việc với tư cách là nhà nghiên cứu chính sách công, nhà nhân khẩu học và trợ lý giáo sư tại Đại học Wisconsin. Cô và bạn đời của mình đã đi đến quyết định không sinh con vì cả hai đều không muốn chịu trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ.
“Chúng tôi muốn dành thời gian, năng lượng và nguồn lực của mình theo những cách khác. Chúng tôi thích làm dì, làm chú, nhưng không muốn phải túc trực trông con 24/7”, cô nói.
Mục tiêu của cô bao gồm tiếp tục xây dựng sự nghiệp, đi du lịch và tham gia vào cộng đồng của mình. Cô thừa nhận rằng những điều đó có thể được ưu tiên khi có con. Nhưng việc có con sẽ làm tăng thêm nhiều phức tạp.
Cô nói thêm: “Việc nuôi con rất tốn kém, mất thời gian và mệt mỏi, đặc biệt là ở một quốc gia không ưu tiên đầy đủ cho việc chăm sóc trẻ em giá cả phải chăng hoặc chế độ nghỉ phép có lương cho gia đình”.
Hơn nữa, văn hóa nuôi dạy con cái đã thay đổi trong vài thập kỷ qua. Chẳng hạn như thế hệ Gen Z, tư duy về quan điểm làm cha mẹ đều rất khác so với thế hệ trước.
Paula Fass, một nhà sử học văn hóa và là giáo sư tại Đại học California, Berkeley, chia sẻ với CNBC Make It rằng rủi ro có vẻ cực kỳ cao và mối lo ngại về khả năng xảy ra sự cố là có thật.
Fass cho biết: “Tôi nghĩ rằng, ngay lúc này có nỗi sợ về việc nuôi dạy con cái và làm cha mẹ, một loại lo lắng chung đang xâm chiếm thế hệ trẻ. Vì vậy, họ đang mâu thuẫn về việc liệu có đáng để có con hay không, khi mà người ta kỳ vọng rất nhiều vào bạn với tư cách là cha mẹ”.
Bởi không ai muốn làm cha mẹ tồi nên nếu bản thân không có khả năng thì họ sẽ lựa chọn độc thân
Cha mẹ ngày nay dành nhiều thời gian cho con cái hơn cha mẹ ngày xưa. Một nghiên cứu năm 2016 cho thấy các bà mẹ vào năm 2012 dành thời gian cho con cái nhiều gấp đôi, trung bình 104 phút mỗi ngày so với các bà mẹ vào năm 1965 (54 phút mỗi ngày).
Trong khi đó, các ông bố dành nhiều thời gian hơn gấp bốn lần cho nhiệm vụ chăm sóc con cái vào năm 2012, trung bình 59 phút mỗi ngày, tăng so với 16 phút vào năm 1965.
Tỷ lệ sinh giảm không chỉ xảy ra ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ sinh của nhiều quốc gia trên toàn cầu đều bắt đầu hoặc tiếp tục giảm, như trường hợp của Hàn Quốc, nơi có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới.
Nhiều chính phủ đã có những bước đi nhằm khuyến khích sinh con. Hàn Quốc đã tăng trợ cấp hàng tháng cho các gia đình có trẻ sơ sinh trong năm đầu tiên. Đài Loan đã đưa ra chế độ trợ cấp tiền mặt và giảm thuế cho cha mẹ cũng như mở rộng chế độ bồi thường nghỉ phép có lương cho gia đình.
Một số ít các giải pháp chính sách này đã tạo ra sự khác biệt đáng kể. Ngay cả các quốc gia như Na Uy, vốn nổi tiếng với các chính sách hỗ trợ gia đình mạnh mẽ, cũng đã bắt đầu chứng kiến tỷ lệ sinh giảm.
Được ban hành kèm phụ lục Thông tư 04/2020/TT-BTP, mẫu giấy xác nhận độc thân sẽ gồm các nội dung như sau:
......................................
......................................(1)
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
........, ngày…...tháng…….năm…....
GIẤY XÁC NHẬN TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN
..........................................................................(2)
Xét đề nghị của ông/bà: (3) ………………………..
về việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho (4)……………………………
Họ, chữ đệm, tên: …………………………………………………………
Ngày, tháng, năm sinh: …………………………………………………………
Giới tính: ................Dân tộc: ..............................Quốc tịch:
Giấy tờ tùy thân: …………………………………………………………
Nơi cư trú: ………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..
Tình trạng hôn nhân: …………………………………………………….
……………………………………………………………………………..
Giấy này được sử dụng để:……………………………………………..
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị đến thời điểm thay đổi tình trạng hôn nhân hoặc 06 tháng kể từ ngày cấp, tùy theo thời điểm nào đến trước.
(ký, ghi rõ họ tên, chức vụ và đóng dấu)
(1) Ghi tên cơ quan cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (ghi đủ các cấp hành chính).
(2) Ghi tên cơ quan cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. (Ví dụ: Uỷ ban nhân dân phường Mai Động).
(3) Ghi rõ họ, chữ đệm, tên của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã hoặc viên chức lãnh sự được giao nhiệm vụ tham mưu giải quyết.
(4) Ghi rõ họ, chữ đệm, tên của người được cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Căn cứ biểu mẫu trên, những nội dung có trong giấy xác nhận độc thân gồm:
- Cơ quan cấp Giấy xác nhận độc thân là Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi một trong hai bên nam, nữ cư trú theo Điều 21 Nghị định 123/2015/NĐ-CP.
Ví dụ như Uỷ ban nhân dân phường Mai Động, TP. Hà Nội.
- Nơi cư trú của người yêu cầu: Ghi theo nơi thường trú hoặc nơi tạm trú (nếu không có nơi thường trú). Nếu không có cả hai thì ghi theo nơi đang sinh sống hiện tại.
- Giấy tờ tuỳ thân của người yêu cầu: Ghi theo nội dung trên Căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn hạn sử dụng.
Ví dụ: Căn cước công dân số 038xxxxxxxxx do Cục Quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư cấp ngày 01/01/2022.
Chứng minh nhân dân số 173xxxxxx do công an Thanh Hoá cấp ngày 22/3/2020.
- Tình trạng hôn nhân của người yêu cầu: Mục này là mục quan trọng nhất của giấy xác nhận độc thân. Trong đó, cán bộ tư pháp hộ tịch sẽ ghi rõ tình trạng hôn nhân của người yêu cầu: Chưa kết hôn lần nào, hiện tại đang có vợ hoặc đang có chồng với người nào theo Giấy chứng nhận kết hôn số… cấp ngày… do… cấp; đã kết hôn nhưng hiện nay đã ly hôn theo bản án/quyết định… mà chưa đăng ký kết hôn với ai…
- Mục đích sử dụng giấy xác nhận độc thân: Ghi rõ để đăng ký kết hôn hoặc làm thủ tục thừa kế hoặc để đi xuất khẩu lao động hoặc để vay vốn ngân hàng…
Trong đó, nếu để đăng ký kết hôn thì phải ghi rõ tên người dự định kết hôn cùng năm sinh, số giấy tờ tuỳ thân và địa chỉ nơi thực hiện đăng ký kết hôn.
Khoản 2 Điều 12 Thông tư 04/2020/TT-BTP nêu rõ:
2. Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị đến thời điểm thay đổi tình trạng hôn nhân hoặc 06 tháng kể từ ngày cấp, tùy theo thời điểm nào đến trước.
Đồng thời, khoản 1 Điều 23 Nghị định 123 năm 2015 cũng quy định, giấy xác nhận độc thân có thời hạn 06 tháng kể từ ngày cấp. Do đó, thời hạn của giấy xác nhận độc thân là 06 tháng (nếu xin với mục đích kết hôn) hoặc khi thay đổi tình trạng hôn nhân như từ đang kết hôn sang độc thân (do đã ly hôn theo bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật) hoặc từ độc thân sang đã kết hôn…
Để hướng dẫn chi tiết vấn đề này, tại Thông tư 04, Bộ Tư pháp có nêu ví dụ như sau:
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được cấp ngày 03/02/2020 nhưng ngày 10/02/2020, người được cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã đăng ký kết hôn thì Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ có giá trị sử dụng đến ngày 10/02/2020.